Bộ phận phân tích khách hàng cá nhân CTCP Chứng khoán Sài Gòn (SSI Retail Research) vừa có báo cáo tổng hợp kết quả kinh doanh quý I/2018.
83% doanh nghiệp trên sàn báo lãi
706 công ty trên 2 sàn đã công bố BCTC có mức tăng trưởng lợi nhuận 22% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, 587 công ty báo lãi (tương đương 83%) và hơn một nửa trong số đó có lãi tăng trưởng dương so với cùng kỳ. Ngược lại, có 94 công ty báo lỗ và 335 công ty giảm lãi.
![]() |
Phần lớn các nhóm ngành đều ghi nhận tăng trưởng lợi nhuận tích cực, trong đó những ngành chiếm tỷ trọng vốn hóa lớn và có tính dẫn dắt đang dẫn đầu tăng trưởng như Dịch vụ tài chính tăng 66% cùng kỳ với VCI, SSI, HCM; Hàng và dịch vụ công nghiệp tăng 61% với VJC, PAN, GMD; Bất động sản tăng 57% với VRE, VIC, DXG; Ngân hàng tăng gần 52% với VCB, ACB, MBB; Thực phẩm và đồ uống tăng 23% với MSN.…
![]() |
Nguồn: FiinPro, SSI tính toán
Vẫn có nhiều nhóm ngành tăng trưởng thấp và thậm chí âm như ngành dầu khí (PVS, PVD), ngành xây dựng và vật liệu (CII); ngành ô tô và phụ tùng (TCH, DRC, HAX, CSM), ngành tài nguyên cơ bản như (HSG, NKG), ngành y tế (SJF, TRA, JVC).
Xét về nhóm VN30 và HNX30, tăng trưởng lợi nhuận đạt lần lượt 22% và 28% cùng kỳ năm trước. Trong nhóm VN30, 17 doanh nghiệp tăng lãi và 13 doanh nghiệp giảm lãi. Trong nhóm HNX30, số doanh nghiệp giảm lãi là 18, nhiều hơn doanh nghiệp tăng lãi (12). Đặc biệt, HNX30 có 2 doanh nghiệp báo lỗ.
![]() |
Nguồn: FiinPro, SSI tính toán
12 ngân hàng tăng 52% lợi nhuận cùng kỳ năm trước
Lợi nhuận sau thuế của 12 ngân hàng niêm yết tăng 52% cùng kỳ, cao hơn so với mức tăng 36% trong năm 2017. Trong đó những ngân hàng đạt mức tăng gấp 2 - 3 lần như ACB, HDB, TPB và EIB. Cả các ngân hàng hàng đầu cũng đạt tăng trưởng ấn tượng như VCB tăng 59%.
Báo cáo đánh giá 52% là con số tăng trưởng lợi nhuận ấn tượng của ngành ngân hàng nhưng động lực tạo ra tăng trưởng này lại đến từ một nhân tố không thực sự bền vững, đó là chi phí.
Tổng thu từ hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng tăng 35% cùng kỳ trong khi tổng chi hoạt động (chưa gồm trích lập dự phòng) tăng chưa bằng một nửa, chỉ 16%. Một số ngân hàng có chênh lệch tăng thu và tăng chi cao là BID, HDB, TPB và EIB. Trong các năm trước, tăng trưởng chi hoạt động thường xấp xỉ bằng tăng tổng thu và vì vậy mức chênh lệch bất thường này khó có thể kéo dài.
![]() |
Nguồn: FiinPro, SSI tính toán
Một yếu tố cũng cần lưu ý trong KQKD ngành ngân hàng là tăng trưởng các nguồn thu từ kinh doanh chứng khoán, góp vốn, mua cổ phần đều rất cao. Đây là kết quả của việc lợi tức trái phiếu giảm thấp và thị trường chứng khoán tăng điểm trong quý. Tuy nhiên với xu hướng lãi suất tăng lại trong quý II và TTCK giảm sâu, các nguồn thu này sẽ khó duy trì được đà tăng cao trong phần còn lại của năm.
![]() |
Nguồn: FiinPro, SSI tính toán
Hai nguồn thu chính của các ngân hàng là thu từ lãi (tăng26%) và phí dịch vụ (tăng 30%) vẫn duy trì tăng trưởng ổn định. Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng được kỳ vọng sẽ giảm bớt trong năm 2018 nhưng thực tế tăng rất cao (tăng 50%), chủ yếu do BID (tăng 156%) và VPB (tăng 57%). Chi phí dự phòng của VCB tăng thấp, chỉ 7% còn ACB, TPB giảm so với cùng kỳ.
Với KQKD quý I như trên, nhiều khả năng các quý còn lại mức tăng trưởng lợi nhuận của ngành ngân hàng sẽ quay trở lại quỹ đạo 20 - 30%. Báo cáo đánh giá đây vẫn là mức tăng trưởng cao, giúp kéo tăng trưởng tổng lợi nhuận chung toàn thị trường.
Khổng Chiêm